Hiện nay các quốc gia đều hướng tới và tất yếu sẽ đạt được là chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Vậy ở nước ta nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được ghi nhận và thực hiện như thế nào? Cùng Luật sư X tìm hiểu cụ thể về vấn đề này trong bài viết sau.
Hôn nhân và gia đình là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội loài người; cũng là biểu hiện những quan hệ mang tính tự nhiên. Sự liên kết của các cá nhân nhằm xây dựng nên một gia đình; được coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh những quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Chế độ hôn nhân tiến bộ theo từng thời điểm phát triển của xã hội.
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Nguyên tắc một vợ một chồng
Kết hôn là hình thành trên ý chí tự nguyện của hai bên nam nữ. Ngoài ra, hai bên nam nữ có đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Sự kiện kết hôn làm phát sinh mối quan hệ giữa vợ và chồng. Pháp luật nước ta đã quy định cụ thể về điều kiện kết hôn; trong đó có điều kiện để đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
Nguyên tắc một vợ một chồng chi phối điều kiện kết hôn giữa các chủ thể; quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình. Khi đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền thì chủ thể phải tiến hành xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Sau khi xác nhận cả hai bên nam nữ hiện tại đang độc thân; thì mới có đủ điều kiện đăng ký kết hôn. Bởi trong pháp luật và đạo đức chỉ tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp. Và chỉ có người độc thân (chưa có vợ, chưa có chồng); hoặc tuy đã kết hôn nhưng hôn nhân đó đã chấm dứt thì mới được kết hôn. Tương tự sẽ chỉ được kết hôn với người đang không có vợ, không có chồng.
Cụ thể, các trường hợp cấm kết hôn quy định tại điểm d khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2014. Các trường hợp cấm quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 Luật hông nhân và gia đình 2014.
Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vộ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Các hành vi xâm phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng được hiểu là hành vi trái pháp luật; hay thường gọi là hành vi ngoại tình. Bởi chế độ hôn nhân một vợ một chồng được pháp luật bảo vệ. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các hành vi cơ bản vi phạm chế độ một vợ một chồng:
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác.
- Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.
Trong trường hợp có hai chủ thể là người đang có vợ/chồng; tức là người đang có một quan hệ hôn nhận hợp pháp. Người khác ở đây có thể hiểu là người khác giới. Họ có thể đã có chồng/vợ hoặc chưa có chồng/vợ. Cho dù chủ thể khác là ai; thì khi kết hôn với người đang có vợ/chồng đều bị coi là vi phạm quy định về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn của người đang có vợ/chồng với người khác; mặc dù có đăng kí kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc kết hôn của họ bị coi là trái pháp luật.
Người đang có vợ/chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác. Việc này sẽ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ nhân thân và tài sản với vợ hợp pháp. Đồng thời, việc sống chung như vợ chồng là một hành vi vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục của nước ta. Hành vi không chỉ vi phạm pháp luật; mà còn trái đạo đức bị xã hội lên án.
Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng thì có bị phạt không?
Xử phạt hành chính
Hành vi vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng; có thể bị xử phạt hành chính. Căn cứ quy định tại Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng thông thường có thể bị phạt tiền từ 3 triệu đến 5 triệu đồng. Trường hợp khác, có hành vi nghiêm trong hơn có thể bị phạt lên đến 20.000.000 đồng.
Chịu trách nhiệm hình sự
Người có hành vi xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng; có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng”. Căn cứ theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Ngoài ra, bên có hành vi vi phạm chế độ và trái quy định pháp luật tức đã có lỗi trong quan hệ hôn nhân. Do đó, khi ly hôn đây được xem căn cứ Tòa án phân chia tài sản. Phần tài sản sẽ được cân nhắc phân chia bù đắp cho bên còn lại.
Thông tin liên hệ
Bài viết “Nguyên tắc một vợ một chồng được bảo đảm như thế nào ở Việt Nam”. Mong rằng mang lại thông tin hữu ích cho bạn đọc.
Quý khách hàng hãy đăng ký dịch vụ luật sư tư vấn về hôn nhân của chúng tôi để nhận được trợ giúp chuyên nghiệp giải quyết vấn đề pháp lý. Liên hệ ngay qua hotline: 0833 102 102. Hoặc:
- Facebook : www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtobe: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Thực chất trong pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về ly thân. Theo pháp luật hiện hành, quan hệ hôn nhân chỉ chấm dứt khi có bản án quyết định của Tòa án. Nên dù vợ chồng không còn sống với nhau, mong muốn sống riêng hay còn gọi là ly thân. Thì lúc này quan hệ hôn nhân của họ vẫn chưa kết thúc. Nên nếu sống chung với người khác như vợ chồng đã trái pháp luật.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Người có hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng dẫn đến người còn lại tự sát. Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức hình phạt đối với hành vi trái pháp luật, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng này; hình phạt có thể là phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Mặc dù không có giấy đăng ký kết hôn, không công khai mối quan hệ. Các bên đều biết người kia hoặc bản thân mình đã có vợ/chồng hợp pháp. Tuy nhiên vẫn cùng sinh sống và sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm, xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung