Thông qua việc xác định con chung của vợ chồng sẽ chỉ ra được ai là chủ thể mang quyền; và nghĩa vụ trong mối quan
hệ cha, mẹ, con. Đặc biệt, thông qua việc xác định con sẽ chỉ ra được ai là người có trách nhiệm nuôi dưỡng đứa trẻ. Đồng thời; việc xác định con chung của vợ chồng tạo nên những mối quan hệ thiêng liêng trong gia đình; từ đó xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể. Vậy người cha có được từ chối quyền làm cha khi vợ mang thai con người khác?
Hãy cùng luật sư X tìm hiểu về vấn đề này nhé!
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Khái niệm cha đẻ, mẹ đẻ
Dưới góc độ sinh học với các trường hợp sinh con tự nhiên ( không áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản ); thì con sinh ra phải mang huyết thống, mã gen của cha mẹ; và cha mẹ phải là người trực tiếp sinh ra người con. Dưới góc độ pháp lý khái niệm cha mẹ con luôn gắn liền với những sự kiện pháp lý nhất định.
Quan hệ giữa cha mẹ và con về mặt pháp lý chỉ được phát sinh khi được sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tức là về mặt sinh học – xã hộ;, có thể đã tồn tại quan hệ cha, mẹ và con; nhưng dưới góc độ pháp lý thì tư cách cha mẹ, con đẻ chỉ được thừa nhận; thông qua những thủ tục pháp lý nhất định và được ghi nhận bằng các quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bằng các văn bản; giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Cha đẻ, mẹ đẻ trong mối quan hệ với con là người trực tiếp sinh ra người con; có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Con đẻ trong mối quan hệ với cha mẹ là người được cha mẹ sinh ra có quyền; và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Xác định cha, mẹ, con như thế nào?
- Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
“ Điều 88. Xác định cha, mẹ
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”.
Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.” Như vậy, thời điểm bắt đầu thời kì hôn nhân: Theo thủ tục đăng kí kết hôn, hai bên cùng kí vào giấy chứng nhận đăng kí kết hôn. Đó chính là ngày mà thời điểm bắt đầu thời kì hôn nhân.
Có được từ chối quyền làm cha khi vợ mang thai con người khác?
Pháp luật quy định biện pháp suy đoán pháp lý để xác định cha, mẹ, con như vậy là hợp lý; bởi hai bên nam nữ kết hôn với nhau là nhằm mục đích chung sống; xây dựng gia đình nên việc sinh con được suy đoán là đương nhiên. Do vậy, Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp vợ mang thai con người khác; thì theo Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định, người được nhận là cha, mẹ của một người; có thể yêu cầu tòa án xác định người đó không phải là con mình.
Nếu đã đăng ký kết hôn (là vợ chồng hợp pháp) và người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân; thì đứa bé được xác định là con chung của vợ chồng. Nếu người cha không thừa nhận đứa bé là con của mình thì khi sinh ra; thì có thể yêu cầu tòa án xác định cháu không phải là con mình; kèm theo các chứng cứ chứng minh (như kết luận giám định AND…).
Về việc ly hôn, theo khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình; chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con; hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con
Căn cứ theo Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
“ Điều 101. Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con
1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
Tại Điều 102 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định về người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con. Theo đó; cha, mẹ, con đã thành niên không bị mất năng lực hành vi dân sự; thì bản thân họ có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con cho mình. Đối với con chưa thành niên; con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; thì người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con tại Tòa án gồm có: Cha, mẹ, con, người giám hộ của người đó; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em và Hội liên hiệp phụ nữ.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
- Sinh con một bề được nhà nước hỗ trợ từ 10/03/2021 cần điều kiện gì?
Liên hệ Luật sư
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật sư X về Có được từ chối quyền làm cha khi vợ mang thai con người khác?.
Hi vọng bài viết trên sẽ giúp ích cho bạn đọc.
Nếu có bất kì thắc mắc nào về thủ tục pháp lý có liên quan. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi 0833 102 102
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ theo Điều 5 Thông tư số 04/2020/TT-BTP.
4. Trường hợp con do người vợ sinh ra hoặc có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ hoặc chồng không thừa nhận là con chung hoặc người khác muốn nhận con thì do Tòa án nhân dân xác định theo quy định pháp luật.
Trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết thì cơ quan đăng ký hộ tịch tiếp nhận, giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em chưa xác định được cha hoặc đăng ký nhận cha, con, hồ sơ phải có văn bản từ chối giải quyết của Tòa án và chứng cứ chứng minh quan hệ cha, con theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Thông tư số 04/2020/TT-BTP.
Pháp luật quy định : “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”. Tuy hôn nhân của hai bên nam nữ được xác lập sau ngày con sinh ra nhưng được vợ chồng thừa nhận thì để bảo vệ lợi ích của trẻ nhỏ, pháp luật quy định đứa trẻ là con chung của vợ chồng.
Pháp luật có quy định:
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân và được xác dịnh suy đoán là con chung của hai vợ chồng.