Khi người yêu có thai, đa số bạn nam vô cùng vui mừng, hạnh phúc vì sắp được làm cha. Tuy nhiên, không ít kẻ lại muốn trối bỏ trách nhiệm, tàn nhẫn ép người yêu phá thai. Vậy hành vi độc ác, ép buộc người yêu phá thai có vi phạm pháp luật không? Nếu có sẽ bị xử lý như thế nào? Đây là vấn đề được rất nhiều người quan tâm tìm hiểu. Do đó, trong nội dung bài viết này; Luật sư X sẽ giới thiệu đến bạn đọc quy định của pháp luật về vấn đề này.
Cơ sở pháp lý
Nội dung tư vấn
Ép buộc người yêu phá thai có vi phạm pháp luật không?
Phá thai được hiểu là sự kết thúc thai nghén bằng cách loại bỏ hay lấy phôi hay thai nhi khỏi tử cung; trước khi đến hạn sinh nở. Ở người và các giống loài khác; một sự phá thai có thể xảy ra một cách tự nhiên vì biến chứng trong quá trình mang thai, hay do cố ý gây ra.
Hiện nay, vẫn chưa có quy định cụ thể nào về việc ép người yêu phá thai bị xử lý như thế nào. Tuy nhiên, pháp luật cấm phá thai vì lựa chọn giới tính thai nhi. Bởi hành vi này vi phạm bình đẳng giới, làm mất cân bằng giới tính; gây nhiều hệ lụy lâu dài làm xáo trộn sự ổn định của dân số xã hội.
Cụ thể, tại căn cứ khoản 7 Điều 40 Luật bình đẳng giới 2006 quy định như sau:
Điều 40. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị; kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế
7, Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:
… b) Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục; ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.
Như vậy, mặc dù pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể nào về việc ép người yêu phá thai sẽ bị xử lý như thế nào. Nhưng nếu ép buộc người yêu phá thai vì lý do lựa chọn giới tính thai nhi là hành vi vi phạm pháp luật; và bị xử phạt hành chính.
Ép buộc người yêu phá thai bị phạt bao nhiêu?
Căn cứ khoản 3 Điều 100 Nghị Định 117/2020/NĐ-CP quy định: xử phạt hành chính trong lĩnh vực dân số; có nêu rõ về hành vi loại bỏ thai nhi do lý do lựa chọn giới tính thì sẽ bị xử phạt hành chính như sau:
Điều 100. Hành vi loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính
… 3, Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi đe dọa dùng vũ lực; uy hiếp tinh thần để ép buộc người mang thai loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
Như vậy, theo quy định trên, hành vi đe dọa, ép buộc, uy hiếp tinh thần; để ép buộc người yêu nạo phá thai vì lý do giới tính của thai nhi; sẽ bị phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Thậm chí, nếu sử dụng vũ lực để ép buộc người yêu phá thai do giới tính của thai nhi; sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng. Cụ thể quy định tại khoản 4 Điều 100 Nghị định 117/2020/NĐ-CP như sau:
Điều 100. Hành vi loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính
4, Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với hành vi dùng vũ lực để ép buộc người mang thai phải loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
Đặc biệt, tùy theo tính chất mức độ của hành vi dùng vũ lực ép buộc người yêu phá thai; có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích; theo Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Hy vọng những thông tin Luật sư X cung cấp hữu ích với bạn đọc!
Để biết thêm thông tin chi tiết, tham khảo thêm dịch vụ tư vấn của Luật sư X hãy liên hệ 0833102102
Mời bạn xem thêm: Phá thai có vi phạm pháp luật không?
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ khoản 1 Điều 100 Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính của người mang thai mà không bị ép buộc phải loại bỏ thai nhi.
Hiện tại, pháp luật chưa quy định rõ về hành vi dụ dỗ người khác phá thai có vi phạm pháp luật không. Tuy nhiên, trong trường hợp dụ dỗ, lôi kéo người mang thai nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.
Căn cứ Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với y bác sĩ thực hiện hành vi phá thai mà biết rõ người đang mang thai muốn loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.
Ngoài ra, người vi phạm còn bị tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 06 tháng đến 12 tháng.