Pháp luật Việt Nam gắn liền với việc bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của tất cả các thành viên trong xã hội. Trong bối cảnh này, quy định về người phạm tội là phụ nữ có thai đóng vai trò quan trọng để đảm bảo sự công bằng và nhân văn trong hệ thống pháp luật của quốc gia. Quy định về người phạm tội là phụ nữ có thai không chỉ đảm bảo quyền lợi của phụ nữ, mà còn tạo ra sự cân nhắc và sự nhân văn trong quy trình xử lý hình sự. Nó thể hiện sự chú trọng đến tình huống đặc biệt của phụ nữ mang thai và nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ sự phát triển và sức khỏe của em bé. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm trong bài viết “Quy định về người phạm tội là phụ nữ có thai” của Luật sư X nhé!
Quy định về người phạm tội là phụ nữ có thai
Quy định về người phạm tội là phụ nữ có thai trong pháp luật Việt Nam là một biểu hiện của sự nhân văn và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ trong xã hội. Nó cung cấp một khung pháp lháp để bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của phụ nữ mang thai, đồng thời đảm bảo sự công bằng và cân nhắc trong quá trình xử lý hình sự. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng cho các tội phạm nghiêm trọng và không miễn trách nhiệm pháp lý. Qua việc thực thi quy định này, pháp luật Việt Nam mong muốn tạo ra một môi trường thuận lợi và nhân văn cho phụ nữ mang thai trong quá trình xây dựng một xã hội công bằng và phát triển.
(1) Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai
Đây là nội dung được quy định tại Điều 40 Bộ luật Hình sự, theo đó, sẽ không thi hành án tử hình đối với phụ nữ mang thai. Trong trường hợp này, hình phạt tử hình sẽ được chuyển thành tù chung thân.
(2) Người phạm tội là phụ nữ có thai là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Theo điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, người phạm tội là phụ nữ có thai là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đồng thời, theo điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, phạm tội với phụ nữ có thai là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
(3) Khi tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ, không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Bộ luật Hình sự, trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, quy định trên không áp dụng đối với phụ nữ mang thai.
(4) Không tạm giam bị can, bị cáo là phụ nữ có thai
Theo quy định tại khoản 4 Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ mang thai có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác.
Tuy nhiên, nếu rơi vào các trường hợp sau đây thì bị can, bị cáo là phụ nữ có thai vẫn bị tạm giam:
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
(6) Phụ nữ mang thai được hoãn chấp hành hình phạt tù
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ luật Hình sự, phụ nữ mang thai được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
(7) Tổng định lượng ăn của phụ nữ có thai tại trại giam, cơ sở giam giữ gấp 02 lần tiêu chuẩn bình thường
- Phạm nhân nữ trong thời gian có thai tại trại giam, phụ nữ có thai tại cơ sở giam giữ thì tổng định lượng ăn bằng 02 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường và được hoán đổi theo chỉ định của y sĩ hoặc bác sĩ.
Tiêu chuẩn ăn ngày thường gồm:
- 17 kg gạo tẻ;
- 15 kg rau xanh;
- 01 kg thịt lợn;
- 01 kg cá;
- 0,5 kg đường;
- 0,75 lít nước mắm;
- 0,2 lít dầu ăn;
- 0,1 kg bột ngọt;
- 0,5 kg muối;
- Gia vị khác: tương đương 0,5 kg gạo tẻ;
- Chất đốt: tương đương 17 kg củi hoặc 15 kg than.
- Trường hợp phạm nhân nữ có thai không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu 03 m2/phạm nhân, được giảm thời gian lao động và được chăm sóc y tế theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Thi hành án hình sự 2019.
Người phạm tội là phụ nữ có thai thì có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?
Quy định vềđặc biệt với người phạm tội là phụ nữ có thai không áp dụng cho các tội phạm nghiêm trọng như tội giết người, tội hiếp dâm, tội buôn bán ma túy và một số trường hợp khác. Trong những trường hợp như vậy, bất kể phụ nữ có thai hay không, hành vi phạm tội vẫn được xem xét và tiếp tục được xử lý theo quy định pháp luật. Quy định này không miễn trách nhiệm pháp lý hoặc không đòi hỏi phụ nữ có thai không chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình. Ngược lại, nó nhấn mạnh tới việc tìm kiếm các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và gia đình trong quá trình xử lý hình sự.
Theo điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cụ thể:
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
Như vậy, người phạm tội là phụ nữ có thai là một trong các tình tiết được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Quy định về người phạm tội là phụ nữ có thai” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Chúng tôi luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu tìm kiếm thông tin pháp lý, các mẫu đơn hoặc các quy định pháp luật, tin tức pháp lý mới liên quan, vui lòng cập nhật website để biết thêm thông tin. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại khoản 4 Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ mang thai có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác.
Tuy nhiên, nếu rơi vào các trường hợp sau đây thì bị can, bị cáo là phụ nữ có thai vẫn bị tạm giam:
Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
Tiếp tục phạm tội;
Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Theo điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
Theo quy định trên, phụ nữ có thai vẫn bị áp dụng hình phạt tù; nhưng sẽ được tạm hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.