Xin chào Luật sư, tôi hiện đang sống trong một khu dân cư ở Bình Dương. Gần nhà tôi có một đôi vợ chồng lớn tuổi, người vợ mới mất thời gian gần đây. Dù mọi người ủng hộ, khuyên can nhưng người chồng nhất quyết muốn đặt mộ vợ ở trong nhà và đã đang cho xây dựng gần hoàn thiện. Vì là khu đông dân cư nên mọi người đều ngại sống trong điều kiện như vậy. Chúng tôi có nhờ chính quyền can thiệp nhưng không thành công. Hiện tại mọi người sống bên cạnh đều rất hoang mang. Mong luật sư tư vấn một vài quy định và hướng giải quyết liên quan đến vấn đề xây mộ trong nhà này. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Cảm ơn anh đã đặt câu hỏi cho Luật sư X. Vấn đề của anh sẽ được chúng tôi giải đáp qua bài viết “Có được xây mộ trong nhà không? ” dưới đây.
Căn cứ pháp lý
Có được xây mộ trong nhà không?
Đất ruộng vườn có được xây dựng mồ mả hay không còn phụ thuộc vào quy hoạch của từng địa phương. Một số địa phương đã có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ruộng vườn thành khu nghĩa trang, hoả táng. Do đó, nếu được quy hoạch thành khu mai táng thì người dân hoàn toàn có thể xây dựng mồ mả ở phần đất này. Kế hoạch quy hoạch này tuỳ thuộc vào quyết định của mỗi địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số trường hợp người dân xây dựng mồ mả của ông bà, người thân của mình trong khuôn viên đất vườn của gia đình để người chết vẫn được ở bên gia đình ngay cả khi chết đi. Tuy nhiên đây lại là hành vi vi phạm pháp luật do sử dụng đất sai mục đích sử dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Luật Đất đai năm 2013. Theo quy định này thì cá nhân, tổ chức không được sử dụng đất, sử dụng đất không đúng mục đích. Bên cạnh đó, việc xây dựng mồ mả trong đất ruộng vườn trong khuôn viên gia đình vẫn ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư, gây ô nhiễm môi trường và đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư.
Việc xây dựng mồ mả phải đảm bảo vệ sinh môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường hiện hành. Căn cứ theo quy định tại Điều 63 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 thì việc xây dựng mồ mả trong mai táng, hoả táng phải đảm bảo các quy định về vệ sinh môi trường như sau:
– Khu mai táng hoặc hoả táng phải phù hợp với quy hoạch xây dựng của địa phương. Cụ thể phải có vị trí và khoảng cách xây dựng đáp ứng đủ yêu cầu về vệ sinh môi trường, cảnh quan khu dân cư và phải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường xung quanh và nguồn nước;
– Việc bảo quản thi thể, di chuyển thi thể, chốt cất thi thể và hài cốt phải đảm bảo hợp vệ sinh môi trường;
– Cá nhân hay tổ chức hoạt động dịch vụ mi tái, hoả táng phải bảo đảm hợp vệ sinh, xoá bỏ các hủ tục trong mai táng và hoả táng làm ảnh hưởng đến môi trường, gây ô nhiễm môi trường;
– Đối với những người chết do dịch bệnh nguy hiểm thì việc mai táng, hoả táng phải thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế để bảo đảm không làm ảnh hưởng, không lây lan dịch bệnh đến những người xung quanh.
Theo đó, việc xây dựng mồ mả tại đất ở khu dân cư là hành vi vi phạm pháp luật do thực hiện việc mang táng người chết không đáp ứng về vị trí và khoảng cách yêu cầu, làm ảnh hưởng đến cảnh quan khu dân cư. Hơn nữa việc xây dựng mồ mả nằm trong khu dân cư còn gây ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt trong khu dân cư, dần dần sẽ ảnh hưởng đến tất cả sinh hoạt trong khu dân cư. Tuy nhiên pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về mức xử lý vi phạm đối với hành vi xây dựng mồ mả trong khu dân cư nhưng cần phải báo cáo lên chính quyền địa phương để hỗ trợ và di dời mồ mả. Nếu việc xây dựng mồ mả trong đất ở khu dân cư gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường thì bị xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến bảo vệ môi trường.
Quy định của pháp luật hiện hành về xây dựng mồ mả hợp pháp
“Đất thổ cư” là đất để xây cất nhà ở, làm nông nghiệp hoặc các mục đích khác theo quy định của pháp luật. Còn “đất nghĩa trang”, “đất nghĩa địa” là vùng đất có mục đích lưu trữ thi hài, chôn cất người chết tập trung. Đất nghĩa trang thường được quy hoạch tập trung dưới sự quản lí chặt chẽ của người trông coi. Như vậy, mồ mả không thể được xây dựng trên đất thổ cư do vi phạm các điều kiện về vệ sinh . Do đó, mồ mả phải được chôn cất quy hoạch, thống nhất tại một địa điểm thống nhất theo quy định của pháp luật và chỉ dẫn của từng địa phương. Quy định của pháp luật hiện hành về xây dựng mồ mả hợp pháp như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 23/2016/NĐ-CP thì diện tích đất tối đa được sử dụng cho mỗi phần mộ cá nhân được xác định như sau:
– Đối với phần mộ hung táng và chôn cất một lần thì diện tích sử dụng đất tối đa cho mỗi phần mộ là không quá 05 m2;
– Đối với phần mộ cát táng thì diện tích sử dụng đất tối đa cho mỗi phần mộ là không quá 03 m2.
Để xác định được diện tích tối đa cho mỗi phần mộ là bao nhiêu thì người thực hiện chôn cất phải xác định được hung táng, chôn cất một lần và cát táng là gì? Căn cứ theo quy định tại các khoản 6, khoản 7 và khoản 9 Điều 2 Nghị định số 23/2016/NĐ-CP thì các khái niệm trên được hiểu như sau:
Chôn cất một lần được hiểu là hình thức lưu giữ thi hài, hài cốt hoặc tro cốt của người đã chết ở một địa điểm dưới mặt đất và chỉ thực hiện một lần, lưu trữ vĩnh viễn;
Hung táng được hiểu là hình thức lưu giữ thi hài, tro cốt hoặc hài cốt của người đã chết trong một thời gian nhất định và sau đó sẽ cải táng ( hình thức này dân gian thường gọi là sang mộ);
Cát táng được hiểu là hình thức mai táng hài cốt sau khi cải táng hoặc lưu lại tro cốt của người chết sau khi hoả táng.
Một số nguyên tắc được áp dụng đối với hoạt động xây dựng, sử dụng nghĩa trang, cơ sở hoả táng
Quy định là những quy tắc, chuẩn mực trong xử sự; những tiêu chuẩn, định mức về kinh tế, kĩ thuật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận và buộc các tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân thủ. Các quy định được thể hiện chủ yếu dưới hình thức quy phạm pháp luật và được ban hành dưới những hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc là hệ thống các quan điểm, tư tưởng xuyên suốt toàn bộ hoặc một giai đoạn nhất định đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo. Nguyên tắc là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo. Vậy một số nguyên tắc được áp dụng đối với hoạt động xây dựng, sử dụng nghĩa trang, cơ sở hoả táng như thế nào?
Việc xây dựng mồ mả phải được thực hiện theo nguyên tắc hoạt động và sử dụng nghĩa trang. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 23/2016/NĐ-CP thì việc xây dựng mồ mả phải đáp ứng quy tắc chung trong quản lý, hoạt động và sử dụng nghĩa trang. Cụ thể các quy tắc được quy định như sau:
– Việc xây dựng mồ mả nên được xây dựng tại nghĩa trang được quy hoạch, đầu tư xây dựng tuân thủ theo quy định của pháp luật hiện hành về quy hoạch, xây dựng và bảo vệ môi trường;
– Nhà nước khuyến khích đầu tư xây dựng nghĩa trang, cơ sở hỏa táng phục vụ cho nhiều địa phương, sử dụng hình thức táng mới (hoả táng) văn minh, hiện đại nhằm tiết kiệm tối đa đất, kinh phí xây dựng và đảm bảo yêu cầu môi trường và cảnh quan xung quanh;
– Việc quản lý đất nghĩa trang, cơ sở hỏa táng phải tuân thủ theo pháp luật về đất đai, tiết kiệm và hiệu quả; bảo đảm an toàn, an ninh và phù hợp với vệ sinh môi trường xung quanh;
– Việc chôn cất được thực hiện trong các nghĩa trang, trường hợp táng trong các khuôn viên nhà thờ, nhà chùa, thánh thất tôn giáo phải bảo đảm vệ sinh môi trường và được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân các cấp theo phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
– Việc chôn cất phải phù hợp với tín ngưỡng, phong tục, tập quán tốt, truyền thống văn hóa và nếp sống văn minh hiện đại. Xoá bỏ những thủ tục mai táng lạc hậu, gây ảnh hưởng đến môi trường;
– Vệ sinh trong mai táng, hỏa táng và vệ sinh trong xây dựng, quản lý, sử dụng nghĩa trang, cơ sở hỏa táng thực hiện theo quy định của Bộ Y tế để bảo đảm an toàn không lây lan đối với những người chết do dịch bệnh;
– Chủ đầu tư xây dựng nghĩa trang, cơ sở hỏa táng có trách nhiệm quản lý, sử dụng nghĩa trang và cơ sở hỏa táng theo quy định của Nghị định số 23/2016/NĐ-CP và các quy định pháp luật hiện hành khác có liên quan;
– Các đối tượng bảo trợ xã hội khi chết được hỗ trợ mai táng phí theo quy định của pháp luật hiện hành;
– Người sử dụng dịch vụ nghĩa trang, dịch vụ hỏa táng phải tuân thủ các quy định về quản lý, sử dụng nghĩa trang và cơ sở hỏa táng theo quy định của Nghị định này và các quy định hiện hành khác có liên quan;
– Cơ quan quản lý nhà nước về nghĩa trang theo phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác quản lý, sử dụng nghĩa trang và cơ sở hỏa táng; kiến nghị hoặc xử lý các vi phạm về quản lý, sử dụng nghĩa trang và cơ sở hỏa táng trên địa bàn theo thẩm quyền.
Mời bạn xem thêm
- Đất đang tranh chấp có được chuyển nhượng không?
- Thủ tục mua đất đang thế chấp ngân hàng năm 2023
- Đất đang tranh chấp có được chuyển nhượng không?
Khuyến nghị
Với đội ngũ nhân viên là các luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý của Luật sư X, chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý toàn diện về vấn đề luật đất đai đảm bảo chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. Ngoài tư vấn online 24/7, chúng tôi có tư vấn trực tiếp tại các trụ sở Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bắc Giang.
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Có được xây mộ trong nhà không?” đã được Luật sư X giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư X chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cũng như cung cấp dịch vụ khi có nhu cầu của quý khách hàng liên quan tới dịch vụ tách thửa đất,… Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833102102
Câu hỏi thường gặp
Tại điều 629, Bộ Luật hình sự đã nêu rõ, các cá nhân, chủ thể khi gây thiệt hại do hành vi xâm phạm mồ mả gây ra, phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thỏa đáng.
Bên cạnh đó, quy định tại điều 246, Bộ luật hình sự năm 1999, người có hành vi đào, phá mộ, lấy cắp, đổi tráo, chiếm đoạt đồ vật để lại trong mộ hoặc trên mộ cũng như xâm phạm trực tiếp đến thi thế, hài cốt, xác của người chết sẽ chịu mức án cải tạo không giam giữ lên đến một năm, phạt tù ít nhất là ba tháng đến hai năm. Nếu gây ra thiệt hại nghiêm trọng, để lại hậu quả khó có thể khắc phục thì phải chịu mức án từ một năm đến năm năm tù giam.
Quyền sử dụng đất của người dân đã được chỉ rõ cụ thể tại điều 166, Luật đất đai 2013. Theo đó, người sử dụng đất phải có đầy đủ các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất cũng như toàn quyền sở hữu tài sản trên đất đó. Tất nhiên, nếu không có sự cho phép của người sở hữu, bất kì ai cũng không được phép xây dựng thêm, xâm phạm và lấn chiếm đất đó.
Trường hợp ngôi mộ đã có từ trước khi cơ quan Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng thì người sử dụng không có quyền yêu cầu di dời ngôi mộ đi nơi khác. Bởi ngôi mộ đã có từ trước đó, không xâm chiếm đất hợp pháp của người sử dụng và người sử dụng cũng đã chấp nhận có ngôi mộ trên mảnh đất của mình nên mới đi nộp hồ sơ đăng ký sử dụng đất.
Lúc này, người sử dụng đất không thể yêu cầu di dời ngôi mộ nếu người quản lý của ngôi mộ đó không đồng ý di dời. Cách tốt nhất để thực hiện đúng pháp luật chính là thỏa thuận với đối phương để được đối phương chấp nhận tự nguyện di dời. Ngay cả khi thỏa thuận không thành, người sử dụng đất cũng không thể tự ý xâm phạm đến mồ mả của họ.
“Đất thổ cư” là đất để xây cất nhà ở, làm nông nghiệp hoặc các mục đích khác theo quy định của pháp luật. Còn “đất nghĩa trang”, “đất nghĩa địa” là vùng đất có mục đích lưu trữ thi hài, chôn cất người chết tập trung. Đất nghĩa trang thường được quy hoạch tập trung dưới sự quản lí chặt chẽ của người trông coi.
Dựa trên điều 84, Bộ luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định nguyên tắc cần thiết khi chôn cất mồ mả, xây dựng nghĩa trang phải dựa trên kế hoạch quy hoạch cụ thể, chỉ rõ vị trí, đáp ứng điều kiện khoảng cách thích hợp để bảo đảm không gây ô nhiễm môi trường, không làm ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt của khu dân cư xung quanh.
Như vậy, mồ mả không thể được xây dựng trên đất thổ cư do vi phạm các điều kiện về vệ sinh được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2014. Do đó, mồ mả phải được chôn cất quy hoạch, thống nhất tại một địa điểm thống nhất theo quy định của pháp luật và chỉ dẫn của từng địa phương.
Đến nay, những quy định về đất mồ mả đã có nhiều thay đổi và được Nhà nước quan tâm nhiều hơn, các điều luật cũng chi tiết và cụ thể hơn, giúp ích cho người dân khi có nhu cầu cần thiết.