Trong những năm gần đây, vấn nạn cá độ bóng đá đang diễn ra ngày càng phổ biến trong xã hội và được báo chí nhắc đến rất nhiều lần. Thậm chí, nhiều cá nhân khi không đủ tiền để cá độ còn đi vay tiền của người thân, bạn bè để tham gia. Vì tin tưởng nên nhiều người đã cho vay mà không hay biết số tiền cho vay mục đích dùng để cá độ bóng đá. Vậy theo quy định, Cho vay để cá độ bóng đá có phải là đồng phạm không? Trường hợp nào cho vay để cá độ bóng đá không phải là đồng phạm? Quy định về mức xử phạt hành vi cá độ bóng đá như thế nào? Bài viết sau đây của Luật sư X sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc về vấn đề này, mời quý bạn đọc cùng tham khảo nhé. Hi vọng bài viết sẽ đem lại nhiều thông tin hữu ích cho quý bạn đọc.
Căn cứ pháp lý
Khái niệm đồng phạm
Đồng phạm là thuật ngữ được nhắc đến tương đối nhiều trong các văn bản luật cũng như thực tiễn điều tra, xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Theo đó, người đồng phạm gồm:
– Người tổ chức: Là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Lưu ý rằng, không phải mọi vụ án đồng phạm đều có người tổ chức. Người giữ vai trò là người tổ chức sẽ thường xuất hiện trong các vụ án phạm tội có tổ chức.
– Người thực hành: Là người trực tiếp thực hiện tội phạm, hành vi đó là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả. Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiện tội phạm bởi họ là người trực tiếp thực hiện phạm tội. Dù đồng phạm giản đơn hay phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành.
– Người xúi giục: Là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi xúi giục thực hiện trước khi người thực hành thực hiện hành vi phạm tội.
– Người giúp sức: Là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi của người giúp sức được thể hiện như sau:
- Cung cấp công cụ, phương tiện, thông tin cần thiết để thực hiện tội phạm;
- Khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm;
- Hứa che giấu người phạm tội hoặc hứa tiêu thụ tài sản do tội phạm mà có…
Hành vi này không trực tiếp gây thiệt hại cho khách thể mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm.
Trong đó, một vụ án đồng phạm không phải lúc nào cũng có đủ 04 loại người đồng phạm nêu trên, một người có thể đóng nhiều vai trò đồng phạm.
Cho vay để cá độ bóng đá có phải là đồng phạm không?
Căn cứ khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 quy định đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Người đồng phạm bao gồm:
– Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
– Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
– Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
– Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
Như vậy, khi xác định người cho vay tiền để cá độ bóng đá có phải là đồng phạm hay không, cần căn cứ vào việc ban đầu người cho vay có biết mục đích của bên vay là dùng số tiền đó để cá độ hay không. Trường hợp bên cho vay không biết mục đích sử dụng tài sản sau khi cho vay là để cá độ thì đây là một giao dịch dân sự bình thường. Do đó người này không được xem là đồng phạm trong Tội đánh bạc đồng thời không thuộc trường hợp không tố giác tội phạm; che giấu tội phạm.
Tuy nhiên trường hợp bên cho vay biết bên đi vay sẽ dùng tài sản để cá độ bóng đá, thì người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò là người đồng phạm đối với tội danh đánh bạc nếu thỏa mãn các cấu thành cũng như các yếu tố khác trong xác định đồng phạm của vụ án hình sự.
Để ngăn chặn hành vi cá độ bóng đá, pháp luật hình sự đã đặt ra mức phạt nghiêm khắc cho hành vi này. Theo đó, người nào cá độ bóng đá với số tiền từ 05 triệu trở lên hoặc dưới 05 triệu nhưng thuộc một trong các trường hợp mà Bộ luật Hình sự quy định có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Trường hợp nào cho vay để cá độ bóng đá không phải là đồng phạm?
Trong trường hợp cho người khác mượn tiền nhưng người cho mượn không biết mục đích của người mượn tiền là dùng số tiền đó để thực hiện hành vi đánh bạc thì coi như hành vi cho mượn tiền này là một giao dịch dân sự bình thường.
Vì người cho mượn tiền không biết mục đích của người mượn tiền nên họ không thuộc trường hợp không tố giác tội phạm, che giấu tội phạm, hoặc người giúp sức. Cả hai người không cùng chung mục đích, cũng không hề có sự hỗ trợ về vật chất hoặc tinh thần.
Do đó người cho mượn tiền không phải là đồng phạm.
Tuy nhiên, trường hợp bạn biết người mượn tiền muốn mượn tiền nhằm đánh bạc nhưng vẫn đồng ý cho mượn thì người cho mượn sẽ là đồng phạm tội đánh bạc. Như vậy, rõ ràng ý chí của người cho mượn coi như là đã đồng thuận với ý chí của người đi mượn tiền, tức là dùng số tiền vay được này để tiếp tục đánh bạc. Bởi tuy người cho mượn tiền không trực tiếp thực hiện tội phạm nhưng nếu không nhờ sự giúp đỡ về vật chất của người đó thì người mượn tiền sẽ không có đủ khả năng để thực hiện hành vi phạm tội.
Xác định trách nhiệm hình sự đối với đồng phạm ra sao?
Đồng phạm là trường hợp từ 02 người trở lên cùng thực hiện tội phạm, do vậy nững người có hành vi phạm tội đều cùng phải chịu trách nhiệm hình sự chung. Theo đó, những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về một tội phạm mà họ đã thực hiện và đều bị áp dụng hình phạt của cùng một tội mà họ thực hiện.
Mọi đồng phạm đều bị áp dụng nguyên tắc chung về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xác định hình phạt.
Bên cạnh đó, mỗi người đồng phạm lại đều phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập đối với hành vi phạm tội của mình. Điều này thể hiện ở chỗ, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đến đâu thì áp dụng trách nhiệm đến đó. Người đồng phạm này không phải chịu trách nhiệm hình sự về sự vượt quá của người đồng phạm khác.
Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của đồng phạm này cũng đã được nhắc đến tại Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 như sau:
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
Quy định về mức xử phạt hành vi cá độ bóng đá
Mức xử phạt hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính người cá độ (cá cược) bóng đá
Cá độ bóng đá cũng được coi là đánh bạc trái phép. Do đó, nếu cố tình thực hiện, người tham gia cá độ bóng đá có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đánh đánh bạc.
Trong đó, trường hợp cá độ bóng đá với số tiền nhỏ (dưới 05 triệu đồng), người tham gia cá độ có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Cụ thể, khoản 2 Điều 28 Nghị định này nêu:
- Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
- a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật;
- b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
- c) Cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác.
Như vậy, nếu thực hiện hành vi cá độ bóng đá dù với số tiền nhỏ, người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 01 – 02 triệu đồng. Ngoài ra người vi phạm còn bị tịch thu tang vật, phương tiện và tiền thu được do cá độ bóng đá mà có.
Mức xử lý hình sự
Cụ thể, các khung hình phạt áp dụng với Tội này như sau:
Hình phạt chính:
Khung 01:
Phạt tiền từ 20 – 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng – 03 năm với hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá:
- Từ 05 triệu – dưới 50 triệu đồng
- Dưới 05 triệu đồng nhưng:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc/gá bạc.
- Đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc/gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Khung 02:
Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
- Có tính chất chuyên nghiệp.
- Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên.
- Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.
- Tái phạm nguy hiểm.
Hình phạt bổ sung:
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 – 50 triệu đồng.
Như vậy, nếu thực hiện hành vi cá độ bóng đá với số tiền từ 05 – dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 05 triệu nhưng đã bị phạt hành chính hoặc kết án về hành vi liên quan đến cờ bạc, người cá độ sẽ bị phạt tù đến 03 năm.
Trường hợp cá độ có tổ chức hoặc tiền cá độ từ 50 triệu đồng trở lên hoặc cá độ trực tuyến thông qua các trang cá độ online,…, người vi phạm còn có thể bị phạt đến 07 năm tù.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu bị hạn chế khi nào?
Thông tin liên hệ
Trên đây là bài viết Luật sư X tư vấn về “Cho vay để cá độ bóng đá có phải là đồng phạm không?“. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả. Đội ngũ luật sư của Công ty Luật sư X luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc liên quan đến Thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp của bạn. Nếu có những vấn đề nào chưa rõ cần được tư vấn thêm quý độc giả hãy liên hệ ngay tới hotline 0833.102.102 để được các chuyên gia pháp lý của Luật sư X tư vấn trực tiếp.
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Trường hợp nếu bạn biết người mượn tiền muốn mượn tiền nhằm đánh bạc nhưng vẫn đồng ý cho mượn thì người cho mượn sẽ là đồng phạm tội đánh bạc. Như vậy, rõ ràng ý chí của người cho mượn coi như là đã đồng thuận với ý chí của người đi mượn tiền, tức là dùng số tiền vay được này để tiếp tục đánh bạc. Bởi tuy người cho mượn tiền không trực tiếp thực hiện tội phạm nhưng nếu không nhờ sự giúp đỡ về vật chất của người đó thì người mượn tiền sẽ không có đủ khả năng để thực hiện hành vi phạm tội.
Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của đồng phạm này cũng đã được nhắc đến tại Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 như sau:
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
Trường hợp cá độ bóng đá với số tiền nhỏ (dưới 05 triệu đồng), người tham gia cá độ có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Như vậy, nếu thực hiện hành vi cá độ bóng đá dù với số tiền nhỏ, người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 01 – 02 triệu đồng. Ngoài ra người vi phạm còn bị tịch thu tang vật, phương tiện và tiền thu được do cá độ bóng đá mà có.