Xin chào Luật sư X, tôi và chồng kết hôn đã 6 năm và có được 1 đứa con chung năm nay 4 tuổi. Tháng trước, tôi vô tình thấy tin nhắn nhân tình của chồng nhắn đến khi anh ta để quên điện thoại trên bàn. Biết chồng ngoại tình nên tôi thấy rất đau khổ và không thể tiếp tục cuộc hôn nhân này. Vì thế tôi muốn ly hôn. Để chuẩn bị tốt cho việc ly hôn này tôi đã thu thập đầy đủ chứng cứ ngoại tình của chồng. Và bây giờ, để có thể giành được quyền nuôi con tôi cần phải chứng minh thu nhập của mình. Vậy mẫu xác nhận thu nhập để giành quyền nuôi con năm 2022 như thế nào? Xin được tư vấn.
Chào bạn, cảm ơn vì câu hỏi của bạn và để giải đáp thắc mắc hãy cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết sau nhé.
Căn cứ pháp lý
Điều kiện Tòa án xem xét giao con cho cha, mẹ khi ly hôn
Theo quy định của pháp luật, Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Khi không có thỏa thuận thì Tòa án sẽ xem xét nhiều yếu tố nhưng hơn hết là phải có căn cứ cho việc cha, mẹ đủ điều kiện để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho con.
Từ điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 vừa nếu có thể thấy để giành quyền nuôi con sau khi ly hôn trước tiên cần chú ý đến độ tuổi của con:
- Đối với trường hợp con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đáp ứng điều kiện theo quy định.
- Đối với trường hợp con trên 36 tháng tuổi thì quyền nuôi con của hai vợ chồng là như nhau. Khi này, nếu hai vợ chồng không thể thỏa thuận được thì Tòa án sẽ tiến hành xem xét và giao con cho bên có điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ nuôi. Những yếu tố để Tòa án xem xét bao gồm điều kiện về vật chất và điều kiện về tinh thần; điều kiện về vật chất như: ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…; điều kiện về tinh thần như: điều kiện vui chơi, giải trí cho con, tình cảm của cha mẹ đối với con trước khi ly hôn, nhân cách đạo đức của cha mẹ…
- Đối với trường hợp con từ đủ 07 tuổi thì cần xem xét nguyện vọng của con.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp quyền nuôi con sau khi ly hôn
Nguyên tắc 1: Con dưới 36 tháng tuổi sẽ được ưu tiên quyền nuôi con thuộc về mẹ.
Nguyễn tắc 2: Con từ 3 tuổi đến 7 tuổi thì quyền nuôi con của cha và mẹ ngang bằng nhau. Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào các điều kiện: Vật chất (điều kiện kinh tế, gia sản, thu nhập, tài sản, chỗ ở,…); Tinh thần (thời gian chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ con, thời gian vui chơi với con, trình độ học vấn, nhân cách đạo đức,…)
Nguyên tắc 3: Con trên 7 tuổi thì Tòa án phải xem xét nguyện vọng của trẻ và ghi nhận bằng văn bản.
Cần lưu ý: đối với trường hợp con dưới 36 tháng tuổi thì mẹ là trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Nhưng khi con trên 36 tháng tuổi thì cha sẽ có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn trong một số trường hợp cụ thể.
Các bằng chứng cần chuẩn bị để giành quyền nuôi con?
Như phân tích ở trên, việc giành quyền nuôi con khi vợ chồng không thỏa thuận được sẽ do Tòa án ấn định. Tuy nhiên, pháp luật không quy định cụ thể các điều kiện cũng như căn cứ để ấn định giao con cho cha hay mẹ. Do đó, trên thực tế, các bên thường sẽ chứng minh những vấn đề dưới đây:
Có thu nhập đảm bảo nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất cho con
Đây có thể coi là một trong những yếu tố quan trọng khi cha, mẹ muốn giành quyền nuôi con khi ly hôn. Bởi khi có một cuộc sống đảm bảo, có điều kiện về vật chất như có thu nhập ổn định thể hiện qua việc có công việc ổn định, lương cao, thu nhập ổn định, có sổ tiết kiệm…
Những yếu tố về vật chất này đủ để đảm bảo trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con đầy đủ và cho con được học hành trong môi trường giáo dục tốt nhất.
Có thời gian, giành nhiều tình cảm quan tâm, yêu thương con
Ngoài vật chất, yếu tố tinh thần của con cũng là một trong những vấn đề được quan tâm. Theo đó, khi bản thân có thời gian chăm sóc con, bên cạnh con, yêu thương, tôn trọng ý kiến của con, không phân biệt đối xử với các con… thì sẽ có lợi trong việc giành quyền nuôi con.
Những bằng chứng trong trường hợp này có thể về thời gian làm việc của người muốn giành quyền nuôi con; đối phương là người thường xuyên đi công tác, thường xuyên đi xa nhà, không có thời gian chăm sóc cho con…
Chứng minh có nhiều điều kiện khác tốt cho con hơn đối phương
Ngoài yếu tố về vật chất và tinh thần, nhiều khi đương sự cũng cần phải chứng minh các điều kiện khác như có thể tạo môi trường, không gian tốt nhất cho con phát triển…
Chứng minh đối phương không đáp ứng điều kiện nuôi con trực tiếp
Đây được xem là một trong những biện pháp để Tòa án xem xét điều kiện tốt nhất cho con. Nếu xét về vật chất, tinh thần và điều kiện khác, các đương sự đều có tình huống tương tự nhau thì đây sẽ là một trong những yếu tố quan trọng để Tòa án quyết định giao cho cho ai.
Những vấn đề cần chứng minh trong trường hợp này có thể kể đến:
– Trong thời gian đang chung sống, đối phương không quan tâm đến con, hay đánh đập, bạo lực với con về tinh thần và thể xác, ngăn cản, không tạo điều kiện cho con được phát triển năng khiếu… ảnh hưởng sâu sắc đến việc phát triển toàn diện của con.
– Chứng cứ chứng minh nguyên nhân ly hôn là do lỗi của đối phương ví dụ như ngoại tình, bạo lực gia đình… Qua đó, khẳng định, đối phương là một tấm gương xấu cho con, nếu để con sống chung với đối phương sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của con…
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải cứ liệt kê ra những điều kiện, yếu tố như trên là được mà cha, mẹ cần phải có bằng chứng cụ thể, rõ ràng, đầy đủ sức thuyết phục để Tòa án căn cứ vào đó xem xét, quyết định người trực tiếp nuôi con.
Mẫu xác nhận thu nhập để giành quyền nuôi con năm 2022
Có thể bạn quan tâm:
- Công chức có được góp vốn vào doanh nghiệp không?
- Cá nhân có được góp vốn vào doanh nghiệp tư nhân không?
- Tại sao doanh nghiệp tư nhân không được góp vốn?
Thông tin liên hệ
Trên đây là bài viết Luật sư X tư vấn về “Mẫu xác nhận thu nhập để giành quyền nuôi con năm 2022” Hy vọng bài viết có ích cho độc giả.
Đội ngũ luật sư của Công ty Luật sư X luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc liên quan đến tư vấn pháp lý về vấn đề dịch vụ thám tử mạng của bạn. Nếu có những vấn đề nào chưa rõ cần được tư vấn thêm quý độc giả hãy liên hệ ngay tới hotline 0833102102 để được các chuyên gia pháp lý của Luật sư X tư vấn trực tiếp.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsu
Câu hỏi thường gặp
Về mức cấp dưỡng nuôi con quy định tại Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
“Điều 116. Mức cấp dưỡng
Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”
Pháp luật không quy định cụ thể mức cấp dưỡng là bao nhiêu; mà phải căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; và đương nhiên những chi phí này là chi phí hợp lý. Người nuôi dưỡng đưa ra những chứng từ, hóa đơn khống để tăng tiền cấp dưỡng nuôi con; nếu xét thấy những chi phí đó không hợp lý; thì Tòa sẽ không giải quyết.
Ngược lại, trong trường hợp này người cấp dưỡng cũng phải đưa ra những căn cứ chứng minh những chi phí đó không có thật; hoặc không hợp lý. Hơn nữa nếu việc người nuôi dưỡng đưa ra những chi phí vô lý hay người con do người nuôi dưỡng nuôi thường xuyên ốm đau như vậy; thì đó cũng là một căn cứ để người cấp dưỡng có thể giành quyền nuôi con.
Khi hai vợ chồng chọn hình thức ly hôn thuận tình tức là đã thoả thuận được với nhau về các vấn đề: Chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa hai người, phân chia tài sản chung, nuôi dưỡng, chăm sóc con, giải quyết nợ chung (nếu có)…
Bởi vậy, dù sống ở hai nơi khác nhau nhưng hai bạn hoàn toàn có quyền ly hôn thuận tình.
Ngoài ra, căn cứ điểm h khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khi vợ chồng ly hôn thuận tình, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án của một trong hai bên vợ chồng cư trú hoặc làm việc nếu hai vợ chồng có nơi cư trú/làm việc khác nhau. Nếu hai vợ, chồng có nơi cư trú giống nhau thì nộp tại Toà án nhân dân cấp huyện của nơi đó.
Điều 195, BLTTDS 2015 quy định như sau:
“Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.”
Đối với vụ án Hôn nhân và gia đình thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự không có giá ngạch bằng mức án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 đồng.
Nếu hai vợ chồng có tranh chấp về việc chia tài sản chung thì ngoài việc chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia